VIỆT NAM ĐỨNG THỨ 4 CHÂU Á VỀ PHÁT SINH NHIỀU CHẤT THẢI NHỰA
Rác thải nhựa là những chất không được phân hủy nhiều trong môi trường, bao gồm chai lọ, túi đựng, đồ chơi cũ bằng nhựa và chất thải nilon gồm các bao bì bằng nhựa polyethylene (PE) sau khi sử dụng trở thành rác thải. Rác thải nilon thực chất là một hỗn hợp nhựa, trong đó chiếm phần lớn là nhựa PE – chất khó phân hủy.
Các chuyên gia về chất thải rắn cho hay, Việt Nam đứng thứ 4 (sau Trung Quốc, Indonensia, Philippines) ở Châu Á phát sinh nhiều chất thải nhựa. Báo cáo của Liên hợp quốc xếp Việt Nam ở vị trí thứ 17 trong 109 quốc gia có mức độ ô nhiễm rác thải nhựa lớn trên thế giới.
Theo Vụ quản lý chất thải, Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường), nếu chất thải nhựa và túi nilon không được tái sử dụng, tái chế, thì lượng chất thải nhựa và túi nilon thải bỏ ở Việt Nam xấp xỉ 2,5 triệu tấn/năm, riêng hai thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh thải ra môi trường khoảng 80 tấn nhựa và túi nilon/ ngày. Số lượng bao bì nhựa và túi nilon sử dụng ngày càng gia tăng ở Việt Nam dẫn đến lượng thải tăng dần theo từng năm. Tỷ lệ rác thải bao bì, túi nilon không được tái sử dụng, phải chôn lấp chiếm khoảng từ 5 – 8%, tương đương với khoảng 2,5 triệu tấn/năm.
Chỉ số nhựa tiêu thụ tính trên đầu người tại Việt Nam tăng nhanh trong những năm qua. Nếu như năm 1990, mỗi người tiêu thụ khoảng 3,8 kg/năm thì đến năm 2015, con số này đã tăng lên 49 kg/người/năm, gấp gần 13 lần. Lượng rác thải nhựa ngày một tăng, trong khi đó việc thu gom và xử lý vẫn còn nhiều hạn chế. Chất thải nhựa và túi nilon phát sinh từ các hộ gia đình, chợ, khu du lịch, khu vực công cộng ở Việt Nam chưa được tiến hành phân loại tại nguồn.
Trong đó, một số ít loại chất thải nhựa có giá trị tái chế được thu gom mang tính chất tự phát ở quy mô hộ gia đình, người thu gom rác và nhặt phế liệu tự do. Còn chất thải nhựa không có hoặc có giá trị tái chế thấp, gồm túi nilon, hộp xốp các loại, ống hút nhựa… sử dụng một lần bị thải ra môi trường. Chúng được xử lý cùng với chất thải rắn sinh hoạt. Trong khi đó, việc xử lý chất thải rắn sinh hoạt hiện nay còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập. Hai phương pháp xử lý chủ yếu là chôn lấp và đốt. Phương pháp chôn lấp gây tốn diện tích đất, chất thải không được xử lý triệt để, tiếp tục tồn tại lâu dài gây ô nhiễm đất, ô nhiễm nước.

NHỮNG TÁC HẠI
Tác hại của rác thải nhựa bắt nguồn từ các đặc tính của nhựa là khó phân hủy; chứa một số chất phụ gia có hại; quá trình phân hủy sản sinh khí nhà kính. Theo tính toán của các nhà khoa học, để phân hủy một chai nhựa cần từ 450 – 1000 năm; ống hút từ 100 – 500 năm; cốc ly xốp từ 50 – 200 năm; túi nhựa từ 500 – 1000 năm; bỉm, tã lót từ 250 – 500 năm.
Theo các nhà khoa học, sự lan truyền của các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POPs) thông qua chuỗi thức ăn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người. Nhựa sẽ dễ dàng tan chảy trong khoảng nhiệt độ từ 70 – 800°C và hòa vào thực phẩm, đi vào cơ thể người. Việc tiếp xúc thường xuyên với các hóa chất trong đồ nhựa dùng một lần như BPA, styrene sẽ gây ra nguy cơ mắc các bệnh như ung thư, viêm gan, dị ứng, rối loạn hệ thần kinh, rối loạn nội tiết và vô sinh. Quá trình phân hủy rác thải nhựa còn có thể tạo ra các hạt vi nhựa.
Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) dẫn con số thống kê, hạt vi nhựa có trong 93% số mẫu nước đóng chai từ 11 nhãn hàng tại 9 quốc gia. Mỗi người hấp thụ tối đa 4.620 hạt vi nhựa/năm qua ăn uống (đặc biệt do ăn nhiều hải sản). Ngoài ra, mỗi năm mỗi người hít vào 13.731 – 68.415 hạt vi nhựa từ các đồ đạc trong gia đình. Các hạt vi nhựa có thể xâm nhập và phá hủy tế bào trong cơ thể của các loài sinh vật trong nước ngọt và trong môi trường biển; chúng có thể là vật trung gian gây tích tụ các loại hóa chất nguy hiểm, khi động vật ăn vào sẽ bị nhiễm độc, chất độc này lại được chuyển sang con người khi con người ăn các động vật đó. Rác thải nhựa tác động tiêu cực đến sinh thái biển. Các chất thải như đồ nhựa, túi nhựa, chai nhựa, giày dép cũ… phần lớn sẽ trôi ra biển thông qua sông ngòi và cống rãnh.
Chất thải nhựa, cao su thường phân hủy rất chậm, chúng thường bị nhầm lẫn với thức ăn của các động vật biển. Nhiều đồ thải từ nhựa, cao su, vỏ lon… đã được tìm thấy trong dạ dày của các loài cá, rùa và chim biển. Các hạt nhựa bị nuốt vào có thể gây tắc nghẽn hoặc hư hại thành ruột, làm giảm khả năng hấp thụ thức ăn của sinh vật, hoặc làm chết sinh vật.
Theo WWF, 270 loài sinh vật bị ảnh hưởng trực tiếp từ rác thải nhựa ra đại dương, trong đó, hơn 240 loài có nhựa trong hệ tiêu hóa. Ngoài ra, các hạt vi nhựa có lẫn trong nước biển có khả năng hấp phụ các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy có sẵn trong nước biển và trầm tích biển. Các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (PBTs) bao gồm các chất như: Polychlorinated biphenols (PCBs), hydrocacbon đa hình (PAHs), hexachlorocyclohexan (HCH) và thuốc trừ sâu DDT được đề cập trong Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy. Các chất này có tác dụng làm gián đoạn nội tiết tố sinh sản, tăng tần suất đột biến trong phân bào dẫn đến nguy cơ ung thư. Các sinh vật biển ăn phải các hạt vi nhựa sẽ làm tăng nguy cơ các sinh vật bậc cao (bao gồm cả con người) có thể bị ảnh hưởng bởi các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy, dẫn đến nhiều bệnh lý như vô sinh, ung thư…
Đáng chú ý, rác thải nhựa ảnh hưởng nghiêm trọng đến biến đổi khí hậu. Dù phải mất thời gian rất lâu nhưng rác thải nhựa vẫn sẽ phân hủy dưới tác động của tự nhiên và ánh sáng mặt trời. Trong số các loại nhựa được thí nghiệm, nghiên cứu, thành phần sản sinh ra nhiều khí gây hại nhất là nhựa polyetylen cũng là loại polime tổng hợp được sản xuất và thải ra môi trường nhiều nhất trên thế giới. Và đồng thời, đây cũng là nguồn thải ra methane và ethylene lớn nhất, tác động thẳng đến quá trình Trái đất nóng lên và mực nước biển dâng cao, đe dọa đến nhiều cộng đồng sinh sống ven biển.
HẠN CHẾ TỐI ĐA SỬ DỤNG ĐỒ NHỰA
Theo chuyên gia môi trường, để hạn chế rác thải nhựa, trước hết, cần tuyên truyền, nâng cao nhận thức người dân về chất thải nhựa nói riêng và bảo vệ môi trường nói chung. Cách tốt nhất để có thể giải quyết chất thải nhựa là cố gắng hạn chế tối đa việc sử dụng các đồ nhựa đồng thời thực hiện nghiêm túc các hoạt động thu gom, phân loại rác thải nhựa, không xả chúng bừa bãi ra môi trường. Do vậy, đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cộng đồng về tác hại của rác thải nhựa là điều cần thiết. Tái sử dụng các loại chai lọ, sử dụng các dụng cụ ăn uống (bát, đũa, thìa, muỗng) bằng gỗ, sứ… hạn chế sử dụng túi nilon nếu không cần thiết, sử dụng bình thủy tinh đựng nước thay chai nhựa, bỏ rác đúng nơi quy định, hạn chế tối đa việc sử dụng đồ nhựa một lần.
Thứ hai, cần phân loại rác tại nguồn. Việc phân loại rác tại nguồn góp phần tiết kiệm được tài nguyên, mang đến lợi ích cho chính chủ nguồn thải với việc tái chế một số phế liệu. Đồng thời, nó còn góp phần nâng cao nhận thức cho cộng đồng về việc bảo vệ và sử dụng hợp lý các loại tài nguyên, bảo vệ môi trường. Phân loại rác tại nguồn giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường, giảm thiểu tổng lượng rác thải từ cộng đồng thải ra môi trường. Đồng thời còn tiết kiệm được chi phí thu gom, vận chuyển và xử lý.
Để phân loại rác tại nguồn hiệu quả, cần phân biệt đúng các loại rác: Rác hữu cơ – thường là loại vô cơ – gồm loại tái chế và không tái chế. Rác tái chế là loại rác có khả năng được tái sử dụng, có thể dùng lại nhiều lần trực tiếp hoặc chế biến lại như giấy, bìa các tông,… Rác không tái chế là loại rác thải đã qua sử dụng và không còn khả năng tái chế, chỉ có thể tiến hành xử lý và đưa ra ngoài môi trường.
Thứ ba, tái chế các chất thải nhựa. Biện pháp này giúp tận dụng rác thải nhựa để tạo nên những sản phẩm mới có ích được sử dụng nhiều lần. Tái chế rác thải nhựa mang đến nhiều ưu điểm, giúp làm sạch môi trường, tái sử dụng các tài nguyên, đồng thời còn tạo việc làm cho người lao động.
Thứ tư, thiêu đốt chất thải nhựa. Đây là quá trình sử dụng nhiệt độ cao (1.000 – 1.100°C) để phân hủy rác. Ưu điểm nổi bật của phương pháp này là giúp giảm đáng kể thể tích chất thải cần chôn lấp. Tuy nhiên, chi phí đầu tư và vận hành nhà máy đốt rác khá cao nên cũng là vấn đề nan giải cho những nước kinh tế còn hạn hẹp.

